7 Matching Annotations
  1. Apr 2024
    1. Moral or cautionary tales, in which good children were rewarded and bad children were appropriately punished, were generally of less interest with regard to illustrations than were fairy tales. Many were religious tracts written under the influence of Anglican Evangelicals, and they were published in great number throughout the eighteenth and early nineteenth centuries, by firms such as Newbery and Marshall. The proliferation of editions of such books as Isaac Watts's Divine Songs (1715; see cat. no. 213) testifies to the enduring popularity of works that put religious lessons into a more enjoyable form. Among the most notable women authors of devotional literature or moral tales in England were Trimmer, Anna Laetitia Barbauld (1743–1825), and Mary Martha Sherwood

      Những câu chuyện mang tính cảnh giác hoặc đạo đức, trong đó trẻ ngoan được khen thưởng và trẻ hư bị trừng phạt thích đáng, nhìn chung ít được quan tâm đến hình ảnh minh họa hơn so với truyện cổ tích. Nhiều cuốn sách về tôn giáo được viết dưới ảnh hưởng của những người theo đạo Tin lành Anh giáo, và chúng đã được xuất bản với số lượng lớn trong suốt thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19 bởi các công ty như Newbery và Marshall. Sự gia tăng nhanh chóng các ấn bản của những cuốn sách như Những bài hát thiêng liêng của Isaac Watts (1715; xem mèo. số 213) chứng tỏ sự phổ biến lâu dài của những tác phẩm biến các bài học tôn giáo thành một hình thức thú vị hơn. Trong số các tác giả nữ viết truyện sùng đạo hoặc truyện đạo đức đáng chú ý nhất ở Anh có Trimmer, Anna Laetitia Barbauld (1743–1825) và Mary Martha Sherwood.

    2. Fairy tales, as well as popular adventure tales such as Daniel Defoe's Robinson Crusoe (1719; cat. nos. 115, 121), often engendered criticism in the eighteenth and early nineteenth centuries. Sarah Trimmer (1741–1810), a noted author of moral lesson books, denounced "imaginary beings for children" in her 1773 review of Mother Bunch's Fairy Tales.9 Indeed, though numerous chapbook editions of Perrault were published throughout the eighteenth century, they were generally overshadowed by more didactic books that dealt with issues of morality or religion. It was not until well into the nineteenth century that fairy tales came to dominate the children's book market.

      Những câu chuyện cổ tích, cũng như những câu chuyện phiêu lưu nổi tiếng như Robinson Crusoe của Daniel Defoe (1719; cat. nos. 115, 121), thường gây ra nhiều lời chỉ trích trong thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19. Sarah Trimmer (1741–1810), một tác giả nổi tiếng về các cuốn sách dạy đạo đức, đã lên án “những sinh vật tưởng tượng dành cho trẻ em” trong bài phê bình Truyện cổ tích của Mẹ Bunch năm 1773.9 Thật vậy, mặc dù nhiều ấn bản sách giáo khoa của Perrault đã được xuất bản trong suốt thế kỷ 18, chúng nhìn chung bị lu mờ bởi những cuốn sách mang tính mô phạm hơn đề cập đến các vấn đề đạo đức hoặc tôn giáo. Mãi đến thế kỷ 19, truyện cổ tích mới thống trị thị trường sách thiếu nhi.

    3. The two most significant genres of eighteenth-century children's literature were the fairy tale and the moral tale. Fairy tales, which had been passed down from generation to generation through oral tradition, were first collected and put into print at the French court of Louis XIV by writers such as the Countess d'Aulnoy, Madame de Villeneuve, and Madame Le Prince de Beaumont. Charles Perrault's 1697 Histoires ou contes du temps passé (Tales of long ago; see cat. nos. 144, 146–48, 150, 192) contain the first written versions of "Cinderella," "Sleeping Beauty," "Red Riding Hood," "Blue Beard," "Hop o' My Thumb," and "Puss in Boots."8 Perrault's versions of these stories have dominated English and American children's literature since the eighteenth century. The frontispiece of his original edition (fig. 11) pictured an old woman telling stories to a group of children, with the inscription Contes de ma mère l'oye ("Tales of mother goose," a French folk expression roughly equivalent to "old wives' tales"). This was the first appearance of the character who would later be associated with nursery rhymes when the Newbery firm attached the name to a collection published under the title Mother Goose's Melody; or, Sonnets for the Cradle (1781; cat. no. 154).

      Hai thể loại quan trọng nhất của văn học thiếu nhi thế kỷ 18 là truyện cổ tích và truyện đạo đức. Truyện cổ tích được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua truyền miệng, lần đầu tiên được sưu tầm và in tại triều đình Pháp của Louis XIV bởi các nhà văn như Nữ bá tước d'Aulnoy, Madame de Villeneuve và Madame Le Prince de Beaumont. . Cuốn sách Histoires ou contes du temps passé năm 1697 của Charles Perrault (Những câu chuyện về cách đây đã lâu; xem cat. nos. 144, 146–48, 150, 192) chứa các phiên bản viết đầu tiên của "Cô bé lọ lem", "Người đẹp ngủ trong rừng", "Cô bé quàng khăn đỏ", “Blue Beard,” “Hop o' My Thumb,” và “Puss in Boots.”8 Phiên bản của Perrault về những câu chuyện này đã thống trị văn học thiếu nhi Anh và Mỹ kể từ thế kỷ thứ mười tám. Mặt trước của ấn bản gốc của ông (hình 11) là hình một bà già kể chuyện cho một nhóm trẻ em, với dòng chữ Contes de ma mère l'oye ("Truyện kể về mẹ ngỗng", một cách diễn đạt dân gian của Pháp gần tương đương với "chuyện xưa". chuyện của vợ”). Đây là lần xuất hiện đầu tiên của nhân vật mà sau này gắn liền với những bài đồng dao dành cho trẻ mẫu giáo khi hãng Newbery gắn tên vào một tuyển tập được xuất bản với tựa đề Giai điệu của Mẹ Ngỗng; hoặc, Sonnets for the Cradle (1781; cat. no. 154).

    4. ew attitudes toward children and their education began to develop in the late seventeenth century, when many educators appealed for greater consideration of children's distinctive needs and when the notion of pleasure in learning was becoming more widely accepted.3 Most indicative of this evolution of ideas are the writings of philosophers John Locke (1632–1704) and Jean-Jacques Rousseau (1712–78). In 1693 Locke wrote in Some Thoughts Concerning Education that "children should be treated as rational creatures. . . . They must not be hindered from being children, nor from playing and doing as children, but from doing ill."4 Rousseau regarded childhood as a pure and natural state—one distinct from adulthood—and believed that a central goal of education should be to preserve the child's original nature. He also believed that it was essential for teachers to see things as children do.5 The writings of Locke and Rousseau influenced British educators, and their ideas ultimately led to a more humane approach to education in which enjoyment was considered an aid to learning.

      Thái độ mới đối với trẻ em và nền giáo dục của chúng bắt đầu phát triển vào cuối thế kỷ 17, khi nhiều nhà giáo dục kêu gọi quan tâm nhiều hơn đến những nhu cầu đặc biệt của trẻ và khi khái niệm về niềm vui học tập ngày càng được chấp nhận rộng rãi hơn.3 Biểu hiện rõ ràng nhất của sự phát triển ý tưởng này là các bài viết của triết gia John Locke (1632–1704) và Jean-Jacques Rousseau (1712–78). Năm 1693, Locke viết trong Một số suy nghĩ liên quan đến giáo dục rằng “trẻ em nên được đối xử như những sinh vật có lý trí…. Chúng không được bị cản trở để trở thành trẻ con, cũng như không được chơi và làm như trẻ con, mà là bị bệnh.” Rousseau coi tuổi thơ như một đứa trẻ. một trạng thái trong sáng và tự nhiên - khác biệt với trạng thái trưởng thành - và tin rằng mục tiêu trọng tâm của giáo dục phải là bảo tồn bản chất nguyên thủy của trẻ. Ông cũng tin rằng điều cần thiết là giáo viên phải nhìn sự việc như trẻ em nhìn.5 Các tác phẩm của Locke và Rousseau đã ảnh hưởng đến các nhà giáo dục Anh, và ý tưởng của họ cuối cùng đã dẫn tới một cách tiếp cận giáo dục nhân đạo hơn, trong đó niềm vui được coi là một phương tiện hỗ trợ cho việc học.

    5. One of the most enduring genres of fiction, fables (see cat. nos. 15–32) were initially read in Latin in the classroom rather than for amusement at home. The stories attributed to Aesop (supposedly a Greek storyteller of the sixth century B.C. but almost certainly a legendary figure) were among the most frequently published and illustrated (see figs. 5, 6). Aesop's Fables was published in its first English translation by William Caxton (c. 1422–91) in 1484. It soon became one of the most popular illustrated books for children, though in many early editions there was little attempt to adapt the stories to make them easier for children to understand and relate to

      Một trong những thể loại tiểu thuyết lâu đời nhất, truyện ngụ ngôn (xem cat. nos. 15–32) ban đầu được đọc bằng tiếng Latinh trong lớp học hơn là để giải trí ở nhà. Những câu chuyện được cho là của Aesop (được cho là một người kể chuyện Hy Lạp ở thế kỷ thứ sáu trước Công nguyên nhưng gần như chắc chắn là một nhân vật huyền thoại) nằm trong số những câu chuyện được xuất bản và minh họa thường xuyên nhất (xem hình 5, 6). Truyện ngụ ngôn của Aesop được xuất bản trong bản dịch tiếng Anh đầu tiên của William Caxton (khoảng 1422–91) vào năm 1484. Nó nhanh chóng trở thành một trong những cuốn sách có tranh minh họa phổ biến nhất dành cho trẻ em, mặc dù trong nhiều ấn bản đầu tiên có rất ít nỗ lực chuyển thể các câu chuyện để tạo nên một tác phẩm hay. chúng dễ dàng hơn cho trẻ em hiểu và liên hệ với

    6. Alphabet books exemplify one of the earliest uses of pictures in instructional books for children (see fig. 2; cat. nos. 33–77). From the sixteenth until well into the eighteenth century children learned their alphabets by studying hornbooks (see cat. nos. 33, 38, 39, 50), wooden paddles with inscribed alphabets that were often combined with religious writings such as the Lord's Prayer. Out of the hornbook tradition developed the more pictorial battledore (see cat. nos. 41, 45, 47, 54, 56, 58, 59), a folded piece of cardboard with an illustrated alphabet, named after a traditional game in which hornbooks were used as paddles. The battledore endured until the mid-nineteenth century. By the early nineteenth century other types of games with illustrations were developed for teaching ABCs as well as math, grammar, and science

      Sách bảng chữ cái minh họa một trong những cách sử dụng hình ảnh sớm nhất trong sách hướng dẫn dành cho trẻ em (xem hình 2; mèo. số 33–77). Từ thế kỷ 16 cho đến tận thế kỷ 18, trẻ em học bảng chữ cái bằng cách nghiên cứu sách sừng (xem cat. nos. 33, 38, 39, 50), những mái chèo bằng gỗ có ghi các bảng chữ cái thường được kết hợp với các tác phẩm tôn giáo như Kinh Lạy Cha. Ngoài truyền thống sách kèn đã phát triển thêm battledore bằng hình ảnh (xem cat. nos. 41, 45, 47, 54, 56, 58, 59), một mảnh bìa cứng gấp lại với bảng chữ cái minh họa, được đặt tên theo một trò chơi truyền thống trong đó sách sừng dùng làm mái chèo. Battledore tồn tại cho đến giữa thế kỷ 19. Vào đầu thế kỷ 19, các loại trò chơi có hình ảnh minh họa khác đã được phát triển để dạy ABC cũng như toán, ngữ pháp và khoa học.

  2. Mar 2024
    1. Advertisement and Commercialization: Illustrations were also used extensively in advertisements, contributing to the commercialization of print media. Eye-catching illustrations were employed to promote products and services, further driving sales and revenue for publishers.

      Quảng cáo và thương mại hóa: Hình minh họa cũng được sử dụng rộng rãi trong quảng cáo, góp phần thương mại hóa các phương tiện truyền thông in ấn. Hình minh họa bắt mắt được sử dụng để quảng cáo sản phẩm và dịch vụ, thúc đẩy hơn nữa doanh số và doanh thu cho nhà xuất bản.